Năm gian truân nhất, ta buộc lòng phải bán thân giữa chốn thị thành, chỉ mong lo liệu tang sự cho mẫu thân.
Thiếu gia chuộc ta về, an trí trong Ôn phủ, sai khiến làm tạp dịch.
Sau đó, Ôn gia bất ngờ gặp họa tru di, toàn gia bị lưu đày đến Ninh Cổ Tháp.
Thiếu gia tặng ta ngọc bội tùy thân, lại đem khế ước bán thân hoàn trả.
Chàng nói: “A Hà, từ nay non cao nước thẳm, nàng hãy tự bảo trọng.”
Nhưng ta chỉ cười nhạt, xé nát khế ước, đoạn cùng chàng đi đến Ninh Cổ Tháp.
Thiếu gia chẳng rõ duyên cớ, liền hỏi: “Vì sao nàng lại làm vậy?”
Ta ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi khẽ cười dỗ dành: “Ta vốn lớn lên ở Ninh Cổ Tháp, lần này chỉ xem như trở về cố hương mà thôi.”
Nhưng lời ấy chẳng phải chân ý.
Bởi lẽ ta biết xem tướng.
Ta sớm đã nhìn ra, chàng tất sẽ vong mạng trong cơn bão tuyết nơi Ninh Cổ Tháp vào mùa đông năm nay.
Chàng là người thiện lương, ta thực chẳng đành lòng để chàng ôm hận mà chết.
Mẫu thân ta tinh thông thuật tướng số, có thể tính toán ngày tử vong của mỗi người.
Hôm ấy, bà đứng trước gương đồng soi xét hồi lâu, bỗng nhiên đập bàn, hớn hở vẫy gọi ta:
“Tiểu Hà nhi, mẫu thân sắp chết rồi, chính là ngày đông chí năm nay!”
Giọng điệu bà hào hứng lạ thường, tựa hồ kẻ sắp chết chẳng phải là chính bà.
Từ khi có ký ức, ta vẫn thấy mẫu thân thần thần bí bí như vậy.
Nhưng lạ thay, lời bà nói chưa từng sai lệch nửa phần.
Đến ngày đông chí, bà vẫn mạnh khỏe, chẳng có chút gì gọi là dấu hiệu tử vong.
Bà cùng ta gói sủi cảo, vừa làm vừa dặn dò: “Tiểu Hà nhi, sau khi ta chết, con nhất định phải lo tang sự chu toàn.”
“Đừng qua loa đại khái, chí ít cũng phải có một cỗ quan tài, dù là đơn bạc cũng được.”
Ta vội che miệng bà, nóng ruột nói: “Mẫu thân, còn hai canh giờ nữa là hết ngày đông chí, người sẽ không chết đâu!”
Bà chẳng đáp, chỉ lặng lẽ luộc một mâm sủi cảo nhân thịt ngô, rồi xới một nửa vào bát, bảo ta mang ra đầu phố cho đám hành khất.
Nào ngờ, ta đang phân phát sủi cảo thì một kẻ ăn mày hoảng hốt chạy đến, níu chặt lấy tay áo ta:
“Cẩn Hà cô nương, mau về đi! Nhà cô… cháy rồi!”
Ta vội vã quay về, nhưng lửa đã bốc cao ngùn ngụt, mẫu thân mắc kẹt bên trong, ta cũng không cách nào xông vào cứu người.
Trơ mắt nhìn lửa đỏ nuốt trọn thân ảnh bà, thiêu rụi ngôi nhà cũ kỹ, cùng toàn bộ bạc tiền dành dụm bấy lâu.
Chậc, mẫu thân quả đoán số tinh tường, bà thực sự chết vào ngày đông chí.
Ta ôm lấy thi thể cháy đen của bà, khóc đến khô cạn lệ.
Nhưng rồi chợt bừng tỉnh, bạc đã hóa tro tàn, lấy gì lo tang sự đây?
Hết cách, ta đành nén đau thương, lau khô nước mắt, lại một lần nữa bước ra giữa phố, bán thân lo hậu sự cho mẫu thân.
Con phố này, người qua lại tấp nập, huyên náo không ngớt.
Dẫu thế, kẻ ngang qua ta phần nhiều chỉ thoáng dừng chân liếc nhìn, rồi vội vã rảo bước, tựa như sợ vướng phải điều chẳng may.
Cũng có kẻ thấy ta có chút nhan sắc, nguyện ý ban cho ít bạc lo liệu tang sự, nhưng điều kiện là ta phải làm thông phòng cho họ.
Ta đương nhiên không đáp ứng.
Quỳ giữa đầu phố suốt hai ngày, bỗng có một vị công tử phong tư tuấn nhã, dung mạo tựa ngọc quan, chậm rãi lướt qua.
Chàng dừng bước, cúi xuống nhìn ta chăm chú một hồi, thanh âm ôn hòa:
“Ăn mặc phong phanh như vậy, cô nương có lạnh chăng?”
Ta không chỉ lạnh, mà còn đói đến ruột gan cồn cào, bụng chẳng đúng lúc phát ra một tiếng kêu.
Công tử nghe vậy, thần sắc khẽ động, rồi chẳng nói chẳng rằng đứng dậy rời đi, một lần cũng không ngoảnh lại.
Tưởng chàng chỉ thuận miệng hỏi han, nào ngờ chẳng bao lâu sau, chàng lại quay về, trên tay bưng một bát hoành thánh nóng hổi, bên cánh tay còn khoác thêm một chiếc áo choàng.
Chàng đặt bát hoành thánh trước mặt ta:
“Ăn đi, đồ nóng sẽ giúp ấm người.”
Lời vừa dứt, áo choàng cũng được nhẹ nhàng đặt lên chân ta.
Ta thực sự đói không chịu nổi, liền cầm bát hoành thánh, vội vã ăn sạch.
Đợi đến khi khoác áo, mới phát hiện bên cạnh còn có hai thỏi bạc.
Chàng ngồi xổm xuống, ngang tầm mắt với ta, chậm rãi nói:
“Cầm số bạc này, lo tang sự cho mẫu thân thật chu toàn.”
Ta vốn là kẻ được đằng chân lân đằng đầu, liền vội vàng níu lấy tay áo chàng, ngước mắt cầu xin:
“Nay ta không chốn dung thân, chẳng hay có thể đến phủ công tử làm việc được không?”
Chàng trầm ngâm giây lát, khóe môi hơi cong, cười nhẹ:
“Ta vừa khéo đang thiếu một nha hoàn hầu bút mực, cô nương có nguyện ý hay chăng?”
Ta cứ như vậy mà vào phủ, trở thành nha hoàn dưới trướng Ôn Quân.
Cùng phòng với ta là một cô nương tên Thu Đồng.
Đêm đầu tiên gặp nàng, ta bỗng mộng một giấc mơ quái lạ.
Trong mơ, nàng mặc một chiếc váy xanh lam cũ kỹ, co ro trong sân viện nhỏ, sốt cao không hạ, cô độc trút hơi thở cuối cùng trên giường lạnh lẽo.
Ta chỉ cho rằng đó là một giấc mộng hoang đường, không suy nghĩ nhiều, chuyên tâm hầu việc trong Ôn phủ.
Ôn Quân giao cho ta công việc nhàn nhã, chỉ cần mài mực khi chàng viết chữ.
Biết ta không biết chữ, mỗi khi rảnh rỗi, chàng lại dạy ta nhận mặt chữ, thỉnh thoảng còn trải giấy tuyên, cầm tay ta, từng nét từng nét hướng dẫn ta luyện bút.
Chàng chỉ vào hai chữ đầu tiên, ôn nhu nói:
“A Hà, đây là danh tự của nàng.”
Ta nghiêng đầu, hiếu kỳ hỏi:
“Vậy hai chữ phía sau là gì?”
Gò má chàng khẽ ửng đỏ, thanh âm trầm thấp:
“Là danh tự của ta.”
Ta nghĩ, Ôn Quân đối với ta tốt như vậy, kiên nhẫn dạy ta đọc sách viết chữ, ta hẳn cũng nên báo đáp chàng một phần.
Mùa đông trời rét, chàng lại sợ lạnh, ta định may cho chàng một đôi băng bảo vệ đầu gối.
Nhưng băng bảo vệ đầu gối còn chưa may xong, đại họa đã ập đến.
Kinh thành bỗng bùng phát dịch bệnh, khởi nguồn từ khu chợ, mà Thu Đồng mấy ngày trước vừa vặn có ghé qua đó.
Sau khi trở về, nàng liền than váng đầu hoa mắt, chẳng bao lâu sau liền phát sốt cao không lui.
Mà người kế tiếp nhiễm bệnh, chính là ta.
Phu nhân lập tức sai người thu dọn một gian phòng hẻo lánh, đưa ta và Thu Đồng vào đó, ngoài đại phu, không ai được phép lại gần.
Đại phu đeo khăn che mặt, cũng không dám tới quá gần, chỉ kê đơn thuốc rồi vội vã rời đi.
Thu Đồng bệnh tình trầm trọng hơn ta, ho không ngừng, cuối cùng chưa kịp đón năm mới đã lặng lẽ ra đi.
Lúc nàng mất, trên người vẫn là chiếc váy xanh lam cũ kỹ, dung nhan tiều tụy héo hon, giống hệt trong giấc mộng của ta.
Mẫu thân chưa từng dạy ta thuật xem tướng. Người chỉ nói, trong huyết mạch ta đã chảy dòng máu của người, đợi khi thời cơ đến, ta tự khắc sẽ hiểu.
Nghĩ đến đây, lòng ta bỗng dâng lên một cơn lạnh lẽo, bất giác trầm tư.
Suy nghĩ miên man, ta nhất thời quên ra cổng sân lấy thuốc, đến khi trời tối vẫn còn ngẩn ngơ.
Mãi đến lúc ngoài sân vang lên tiếng pháo nổ, ta mới giật mình nhớ ra—thì ra đêm nay là đêm trừ tịch.
Lúc này, cửa phòng chợt bị đẩy ra, một bóng người tiến vào, trên tay bưng theo một bát thuốc.
Là Ôn Quân.
Cơn sốt vẫn chưa lui, nhưng ta hoảng sợ đến mức lập tức tỉnh táo:
“Thiếu gia, sao người lại tới đây? Mau rời đi, đừng để lây bệnh từ ta!”
Ôn Quân không những không đi, mà còn đặt bát thuốc xuống, ngồi bên giường, nhẹ nhàng múc một thìa, đưa đến bên môi ta:
“Thuốc này đã để ngoài cổng sân hồi lâu, không thấy cô ra lấy, ta trong lòng lo lắng, nên đành đến xem thế nào.”
Chàng từng thìa từng thìa đút thuốc cho ta, đợi ta uống xong, liền vươn tay chạm nhẹ lên trán ta, ánh mắt thoáng trầm xuống, mím môi nói:
“Cô mắc bệnh dịch, mọi người đều e ngại, ta cũng không tiện sai nha hoàn khác chăm sóc cô.”
“Nhưng ta không yên lòng để cô ở đây một mình. Nếu có chuyện gì xảy ra, đến cả người hô hoán cũng không có.”
Chàng nhúng khăn vào chậu nước nóng, vắt khô rồi cẩn thận đắp lên trán ta:
“Ta nghĩ đi nghĩ lại, vẫn là tự mình chăm sóc cô thì hơn.”
“Mắc bệnh thì mắc bệnh, thân thể ta cường tráng, có thể chống đỡ được.”
Ta nhìn đôi môi mấp máy của chàng, trong lòng bỗng dưng dậy lên trăm mối cảm xúc phức tạp.
Giây phút bốn mắt giao nhau, trước mắt ta đột nhiên biến đổi.
Tuyết trắng phủ dày, gió lạnh thấu xương, ta nhìn thấy Ôn Quân vận tù phục, toàn thân chằng chịt vết roi, máu tươi loang lổ.
Ở Ninh Cổ Tháp xa xôi, chàng gắng sức cắn rách ngón tay, dùng máu viết gì đó lên một tờ giấy đã ố vàng.
Sau đó, thân thể chàng dần dần lặng đi, đầu nghiêng sang một bên, đôi mắt khép lại, vĩnh viễn không còn mở ra nữa.
“A Hà, cô làm sao vậy?”
Giọng nói của Ôn Quân kéo ta về thực tại, chàng đưa tay khẽ vẫy trước mặt ta.
Ta… dường như vừa thấy kết cục của chàng.
Nhưng sao có thể chứ?
Ôn gia phú quý hiển hách, Ôn Quân lại đã đỗ Hội nguyên, tương lai xán lạn. Sao có thể rơi vào cảnh ngục tù nơi biên ải?
Ta không dám nói ra, chỉ miễn cưỡng mỉm cười:
“Thiếu gia, đầu ta có chút choáng váng.”
Ngoài cửa sổ, pháo hoa bừng sáng rồi nhanh chóng vụt tắt. Ôn Quân nhẹ nhàng đắp chăn cho ta, thấp giọng nói:
“Ngủ đi, đêm nay là giao thừa, ta ở lại đây thức đêm cùng cô.”
Hôm sau, Ôn Quân quả thật dọn đến phòng ta.
Chàng cầm một quyển sách, ngồi bên giường chậm rãi đọc cho ta nghe giết thời gian.
Hàng mi của chàng rất dài, một cánh hoa mai rơi xuống, vương lại trên đó.
Ta đưa tay phủi giúp chàng, chàng theo bản năng né tránh, đầu ngón tay ta lại lướt qua gò má chàng.
Dưới lòng bàn tay, làn da ấm áp mịn màng, lại khiến lòng người ngứa ngáy.
Ôn Quân lật sang trang mới, vừa vặn đọc đến câu:
“Tình không biết tự bao giờ khởi, một mảnh sâu đậm tựa trời cao.”
Thanh âm như vọng mãi bên tai, mà trái tim ta, hay của chàng, đã đập tự bao giờ, còn vang hơn cả tiếng pháo hoa ngoài cửa sổ.
Đợi đến khi chàng đọc xong quyển sách này, bệnh dịch trên người ta cũng đã hoàn toàn lui hẳn.
Ngày ta ra khỏi tiểu viện, nha hoàn Xuân Lan bên cạnh Phu nhân lập tức tìm đến:
“Cẩn Hà, Phu nhân sai người truyền lệnh, bảo cô đến Nhà Tế Bần một chuyến.”
Ta trong lòng thấp thỏm, vừa theo sau Xuân Lan, vừa níu lấy tay áo nàng, thấp giọng hỏi:
“Phu nhân tìm ta làm gì vậy?”
Xuân Lan liếc ta một cái, ngữ điệu thản nhiên:
“Đương nhiên là có liên quan đến thiếu gia.”